Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Hai câu thơ này tui luôn nghe ra rả hằng ngày từ nhỏ tới lớn, từ người lớn trong nhà cho đến các bản tin thời sự trên cái vô tuyến, cho đến những âm thanh đến từ cái radio. Từ những tượng đài của tỉnh cho đến cả những cổng chào Xã Văn Hóa hay Gia đình Văn hóa. Đều có 1 biểu tượng đó chính là 1 con thuyền, cùng trang sách, 1 cây bút luôn hướng lên trời với ý nghĩa một con thuyền chở đạo từ đạo làm người, đạo làm con và cả con đường chống giặc ngoại xâm.
Và đó không phải lạ gì nữa là 2 câu thơ cốt lõi của bài thơ Than Đạo của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Thì vừa rồi tui có dịp dẫn anh chị đồng nghiệp cũ của tui về thăm quê hương của tui, nơi mà tui sinh ra, nơi mà tui lớn lên, nơi mà tui được dạy từ con chữ từ thở nằm nôi cho đến lúc ra đời mà bương chãi. Đúng rồi, tui là người con của Bến Tre, chính xác hơn là Ba Tri Bến Tre(tui không rõ sau này cái tên này có thành ký ức hay không, nhưng hiện tại nó vẫn là cái tên mà biết bao con người đang luôn ghi nhớ).
Một huyện mà khi xưa được gọi là Quận đó là Ba Tri. Từng nổi tiếng với tích Ông Già Ba Tri, lặn lội từ nơi hẻo lánh cuốc bộ ra tận Kinh Thành Huế để nộp đơn kiện lên vua Minh Mạng để đòi lại công bằng cho người dân.(Tích này mọi người có thể search thêm nha)
Vốn dĩ quê tui cũng chẳng có gì, chỉ có những di tích mang bằng chứng lịch sử mà thôi, nên Lăng Mộ của Cụ Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nơi ấy. Một nơi để chúng ta có những chuyến về nguồn thật ý nghĩa, nhớ về một lịch sử rất bi ai nhưng rất là hào hùng của dân tộc.
Chuyến về này cảnh xưa vẫn thế, nhưng cảm xúc thì khá khác biệt, tại vì lúc trước ghé thì nhiều nhưng lúc ấy, còn trẻ thơ, còn trẻ trâu, không thích thơ, cũng chẳng thích văn, cũng chưa biết được những giá trị mà bản thân cần trân trọng. Lần này mang rất nhiều thứ trong lòng, cũng có ngạc nhiên rất nhiều, cũng thấy nhiều thứ bao năm qua bản thân đã bỏ lỡ. Cái ngạc nhiên nhất có lẽ là Lăng đã được Nhà Nước công nhận là Di Tích Cấp Quốc Gia Đặc Biệt. Khi thấy những dòng chữ này, tự hào là sẽ có nhưng nhiều hơn là khổ thẹn, khổ thẹn ở chổ mình không rõ Lăng đã được công nhận danh hiệu này từ bao giờ.
Nhưng, cũng có những điểm buồn trong lòng, Lăng thì rất ngăn nắp sạch sẽ, cũng rất đẹp, anh chị đồng nghiệp cũng khen rất nhiều, chụp ảnh cũng rất nhiều. Nhưng cái buồn là Lăng khá vắng khách đến thăm, hỏi cô bán nước ngoài cổng thì cô kể là Lăng chỉ lai rai chỉ một vài người như thế thôi, chỉ có những chuyến về nguồn mới thực sự đông. Thôi thì cũng được, xem như cũng là nơi về nguồn cho các em học sinh, là nơi để con em chúng ta còn đến những Thi Nhân Lịch Sử, còn nhớ đến một thời ông cha ta bỏ ra xương máu mà lấy lại. Mong là sắp tới sẽ được chú trọng hơn trong du lịch, sẽ được nhiều người nhớ đến hơn, và mong được những chuyến về nguồn nhiều hơn.
Sau đây đôi dòng ngắn gọn tiểu sử và hành ảnh của chuyến về nguồn này của tui:
Nguyễn Đình Chiểu 阮廷沼 (1/7/1822 - 3/7/1888) tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ (sau khi mù lấy hiệu Hối Trai), sinh tại làng Tân Khánh, tổng Bình Trị thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, mất ở làng An Đức, tổng Bảo An, quận Ba Trị, tỉnh Bến Tre. Cha là Nguyễn Đình Huy, mẹ là Trương Thị Thiệt. Ông là con cả của bà Thiệt, tuy vậy thuộc dòng thứ của ông Huy. Dòng chính của ông Huy với bà Phan Thị Hữu có 2 con: Đình Lân và Thị Phu. Bà họ Trương có 7 con: các em của ông Đình Chiểu là Thị Thục, Thị Nữ, Thị Thành, Đình Tựu, Đình Tự, và Đình Huân.
Ông đỗ tú tài trong kỳ thi hương 1843 tại Gia Định. Năm 24 tuổi ông ra Huế để thi hội dọc đường nghe tin mẹ mất (10-12-1848) ông phải trở về cư tang. Trên đường về ông bị bệnh, mù hai mắt. Ông học được nghề thuốc từ thầy thuốc Trung. Năm sau về đến nhà ông dạy học, sĩ tử rất đông. Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu có lẽ được làm ra trong thời kỳ này. Trong đám học trò, có Lê Tăng Quýnh, kính yêu và cám cảnh của thầy “Đồ Chiểu”, đã xin cha mẹ gả em gái của mình là Lê thị Điền cho thầy.
Năm 1858, Pháp chiếm thành Gia Định, ông phải về quê vợ ở Cần Giuộc, Chợ Lớn. Truyện Ngư tiều vấn đáp có lẽ được làm ra trong giai đoạn này.
Năm 1861, Pháp chiếm Cần Giuộc, ông trôi nổi tới Ba trị xa xôi hẻo lánh. Năm 1867, cụ Phan Thanh Giản tuẫn tiết cũng là năm truyện Lục Vân Tiên được in ra bằng chữ quốc ngữ do tay một người pháp là G. Janeau sao lục và chú thích. Cụ cũng như đa số văn nhân thời ấy không thích chữ quốc ngữ.
(Nguồn: Thivien.net)
=================================
Thảo luận